Từ xưa đến nay, việc lựa chọn một khu vực thích hợp và thuận tiện làm thủ đô bao giờ cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của một chế độ hay có khi của cả một dân tộc.

ÐỊA THẾ PHONG THỦY CỦA HÀ NỘI, HUẾ, SÀI GÒNVÀ VẬN MỆNH CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM.


- LÂM QUỐC THANH -

Từ xưa đến nay, việc lựa chọn một khu vực thích hợp và thuận tiện làm thủ đô bao giờ cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng, có liên quan đến sự sống còn của một chế độ hay có khi của cả một dân tộc. Bởi thế nên từ hơn 3, 000 năm về trước, các vua chúa Trung Hoa đã biết dựa vào thuật Phong thủy để tìm kiếm những vùng đất tốt đẹp cho việc đóng đô lập quốc. Có lẽ điều này giải thích lý do tại sao các triều đại phong kiến Trung Hoa thường tồn tại rất lâu dài, bền bỉ. Và mặc dù cũng phải trải qua những giai đoạn suy tàn, ly loạn, nhưng sức mạnh và nền văn minh của họ vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển cho tới bây giờ, chứ không bị tàn lụi hẳn như những đế quốc cổ đại và trung đại khác như Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Mông Cổ, Ả Rập...



Riêng đối với dân tộc Việt Nam của chúng ta, từ lúc sơ khai của thời kỳ Hùng Vương cho tới nay, thủ đô của đất nước đã được dời đi, đổi lại nhiều lần, và vận mệnh của dân tộc cũng vì thế biến đổi theo. Từ Phong Châu (kinh đô của các vua Hùng) đến Cổ Loa, Phiên Ngung, Hoa Lư, rồi tới Thăng Long (tức Hà Nội), Phú Xuân (tức Huế) và Sài Gòn. Tùy theo địa thế và vận khí riêng biệt của mỗi thành phố trên, đất nước ta đã từng trải qua biết bao nhiêu giai đoạn thăng trầm. Khi thì vươn lên với một nền văn minh rực rỡ của trống đồng Ngọc Lũ, Ðông Sơn; khi thì tàn tạ, yếu kém phải chịu đựng 1,000 năm Bắc thuộc. Rồi dến những lúc cường thịnh đủ sức phá Tàu, bình Chiêm Thành, Chân Lạp; lại có những lúc suy yếu phải chịu sự đô hộ, sai khiến của ngoại bang...



Giờ đây, trong số những địa danh ấy, chỉ còn có Hà Nội, Huế và Sài Gòn là vẫn tiếp tục nắm giữ những vai trò quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và giao thương, mậu dịch của đất nước. Bởi thế hôm nay, người viết muốn được trình bày về địa thế Phong thủy của 3 thành phố này, với hy vọng sẽ giúp bạn đọc thấy được sự liên quan mật thiết giữa địa hình của thủ đô với vận số của dân tộc. Ðồng thời, dựa vào những quy luật biến hóa tự nhiên của vũ trụ để xác định nhũng giai đoạn hưng vượng hoặc suy vong của đất nước trong quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai sắp tới.



Nhưng trước khi đi sâu vào vấn đề, người viết xin được đề cập sơ qua 2 chi tiết quan trọng của Phong thủy là Lạc Thư và Tam Nguyên- Cửu Vận. Những chi tiết này đã được trình bày tương đối đầy đủ trong bài " Phong thủy của vụ 9/11" trước đây (được đăng trên số xuân Nhâm Ngọ của báo Việt Tide và Chicago Việt báo), nên ở đây chỉ xin nói vắn tắt như sau:



* Tam Nguyên-Cửu Vận: là1 chu kỳ 180 năm, được lập đi, lập lại không ngừng. Mỗi một chu kỳ này được chia ra làm 3 (Tam) Nguyên, mỗi Nguyên là một giai đoạn dài 60 năm, và được đặt theo thứ tự là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Mỗi Nguyên lại được chia làm 3 Vận: các Vận 1, 2, 3 thuộc về Thượng Nguyên; các Vận 4, 5, 6 thuộc về Trung Nguyên; và các Vận 7, 8, 9 thuộc về Hạ Nguyên. Mỗi Vận như thế là 1 giai đoạn dài 20 năm.



Ở đây, để tiện theo dõi những diễn biến lịch sử trong từng giai đoạn, người viết xin được giới thiệu với bạn đọc bảng Tam Nguyên-Cửu Vận của hơn 1,000 năm trở lại đây.



THƯỢNG NGUYÊN - TRUNG NGUYÊN - HẠ NGUYÊN



Vận 1 - Vận 2 -- Vận 3 - Vận 4 -- Vận 5 - Vận 6 -- Vận 7 - Vận 8 -- Vận 9



0964 --- 0984 --- 1004 --- 1024 --- 1044 --- 1064 --- 1084 --- 1104 --- 1124



1144 --- 1164 --- 1184 --- 1204 --- 1224 --- 1244 --- 1264 --- 1284 --- 1304



1324 --- 1344 --- 1364 --- 1384 --- 1404 --- 1424 --- 1444 --- 1464 --- 1484



1504 --- 1524 --- 1544 --- 1564 --- 1584 --- 1604 --- 1624 --- 1644 --- 1664



1684 --- 1704 --- 1724 --- 1744 --- 1764 --- 1784 --- 1804 --- 1824 --- 1844



1864 --- 1884 --- 1904 --- 1924 --- 1944 --- 1964 --- 1984 --- 2004 --- 2024



Chú ý: những năm trong bảng trên đều là những năm khởi đầu của mỗi Vận. Thí dụ như năm 964 là năm khởi đầu của Vận 1, nên từ năm đó cho đến năm 983 đều nằm trong Vận 1. Ðến năm 984 mới bước vào Vận 2....



* Lạc Thư: là một đồ bàn hình vuông, bên trong có 9 số (còn được gọi là Cửu tinh), mỗi tương ứng với mỗi Vận, đồng thời chiếm 1 vị trí và phương hướng nhất định như hình bên cạnh. Như vậy, muốn biết được sự hưng, suy của một thành phố trong Vận nào, ta chỉ cần quan sát những khu vực tương ứng trong Lạc Thư là sẽ tìm ra được lời giải đáp. Chẳng hạn như muốn biết khí số của Hà Nội trong Vận 7 như thế nào, trước hết ta cần nhìn vào Lạc Thư, sẽ thấy số 7 nằm ở phía Tây. Như vậy, chỉ cần quan sát địa thế sông, núi ở khu vực phía Tây Hà Nội, đồng thời đối chiếu với khu vực đối diện tức là phía Ðông thì sẽ tìm ra được kết quả chính xác.



Trên đây chỉ là chút khái niệm về Lạc Thư và Tam Nguyên-Cửu Vận, ngoài ra, bạn đọc cũng cần biết hai yếu tố căn bản để định quẻ là Nước và Núi qua ba điểm dưới đây:



a/ Phục Ngâm: là khu vực của chính Vận mà lại có Thủy, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, nên phía Tây được coi là khu vực của chính Vận, mà ở đó lại có Thủy (nước) tức là bị Phục Ngâm.



b/ Phản Ngâm: là khu vực đối diện với chính Vận mà lại có núi, như Vận 7, số 7 nằm ở phía Tây, mà phía Ðông lại có núi tức là bị Phản Ngâm.



c/ Chính Thủy: là Thủy nằm ở khu vực đối diện với chính Vận, như Vận 7, số 7 nằm ở hướng Tây, mà phía Ðông lại có Thủy tức là có Chính thủy.



Trong những cách kể trên, chỗ nào có Phục Ngâm, Phản Ngâm là có sát khí chiếu tới, nên sẽ mang nhiều tai ương, hoạn nạn đến cho thành phố. Còn chỗ nào có Chính thủy tức là được vượng khí chiếu tới, nên sẽ đem đến nhiều may mắn, thuận lợi.



Sau khi đã nắm được những diều cơ bản trên, mời bạn đọc hãy nhìn vào địa thế của 3 thành phố Hà Nội, Huế và Sài Gòn, để tìm hiểu những nguyên nhân đã tạo ra những chặng đường vinh - nhục cho đất nước ta trong suốt gần 1,000 qua.



1. Hà Nội:

HÀ NỘI: là thành phố nằm gần như ngay tại trung tâm của đồng bằng Bắc Việt, trên dải đất hẹp giữa con sông Hồng ở phía Ðông và sông Tô Lịch ở phía Tây. Ðối với Phong thủy, dải đất này chính là chân long, là nơi kết tụ được nhiều nguyên khí của địa hình sông, núi ở chung quanh. Nhờ vậy, Hà Nội sẽ luôn luôn nắm được những vai trò quan trọng về chính trị và kinh tế đối với đất nước, chẳng những thế, trong các thời kỳ hưng vượng còn sản sinh ra những lãnh tụ tài ba, những anh hùng kiệt xuất. Nếu nhìn lên bản đồ miền Bắc, ta sẽ thấy những con sông lớn như sông Cầu, sông Gầm, sông Lô ở phía Bắc; sông Ðà, ở phía Tây, sau khi chảy qua nhiều nơi cuối cùng đều nhập vào sông Nhị Hà chảy về Hà Nội. Xa xa, dọc theo biên giới Việt-Hoa, những dãy núi trùng trùng, điệp điệp xuất phát từ miền Nam Trung Hoa đâm thẳng xuống dọc theo các phía Tây Bắc, Bắc và Ðông Bắc, tất cả cũng đều như muốn hướng về. Ðây chính là thế "núi sông chầu phục" của Hà Nội, một địa thế Phong thủy tuyệt đẹp đến nỗi không một thủ đô nào của các nước trong vùng Ðông Nam Á Châu, (kể cả thành Bắc Kinh của Trung Hoa) có thể so sánh được. Không những thế, ngoài xa nơi phía Ðông và Ðông Nam, Hà Nội còn được đại thủy của vịnh Bắc Việt và Thái Bình Dương chiếu tới nên thần lực rất lớn, xứng đáng là thủ đô muôn đời của một quốc gia văn hiến hùng mạnh.



Nếu đem địa thế núi, sông, biển cả vừa kể trên đối chiếu với Lạc Thư, ta sẽ thấyVận 1 chỉ là giai đoạn trung bình của Hà Nội. Vì mặc dù khu vực phía Bắc có nhiều sông ngòi tức là phạm phải cách "Phục Ngâm", bị sát khí xâm phạm, nên sẽ đem đến nhiều tai ương, loạn lạc. Nhưng tại đây cũng có nhiều dãy núi đâm thẳng xuống đem theo nhiều vượng khí nên chưa đến nỗi, vẫn còn nhân tài có khả năng ổn định, xoay chuyển được thời cuộc. Bước sang Vận 2, tình thế mỗi lúc một suy thoái hơn, vì khu vực phía Tây Nam của Hà Nội tuy chỉ có sông Mã tức là bị "Phục Ngâm" trong trường hợp nhẹ. Nhưng phía đối diện (Ðông Bắc) lại có núi đồi trùng điệp tức là bị "Phản Ngâm", sát khí từ nơi đó sẽ tràn tới, khiến cho đất nước ngày càng trở nên hỗn loạn. May mà tại đây (khu vực phía Ðông Bắc) cũng có nhiều sông ngòi chằng chịt tức là đắc "Chính thủy", vượng khí vẫn còn đến với Hà Nội nên chưa đến nỗi bị suy vong. Qua các Vận 3, 4, đại thủy của vịnh Bắc bộ và Thái bình Dương nơi phía Ðông và Ðông Nam sẽ tạo ra cách "Phục Ngâm", sát khí quá nặng nề, nên sẽ đưa đất nước ta vào tình trạng yếu kém, tàn tạ hơn bao giờ hết. Phải đến khi bước vào Vận 5, nhờ địa thế "núi sông chầu phục", vượng khí của Hà Nội mới bắt đầu bùng lên mãnh liệt, và cùng với nó là sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc. Qua Vận 6, Hà Nội sẽ phải đương đầu với những cuộc chiến tranh cực kỳ ác liệt, do các sông lớn như Nhị Hà, sông Ðà đều bắt nguồn từ phía Tây Bắc, nguồn nước lại rất lớn nên phạm phải cách "Phục Ngâm" rất nặng. May là cũng tại phía Tây Bắc lại có những mạch núi rất dài, rất cao tiến xuống, cuốn theo vượng khí ngút trời, đủ sức để trấn áp sát khí nên Hà Nội sẽ vượt qua được mọi thử thách để đi đến chiến thắng. Nói chung là trong Vận 6, ngay cả những thế lực hùng mạnh bậc nhất trên thế giới mà đụng đến Hà Nội cũng đều sẽ rước lấy những thất bại thảm hại, ê chề. Ðến Vận 7, những con sông Ðà, sông Mã ở phía Tây Hà Nội sẽ tạo ra nhiều sát khí (bị "Phục Ngâm"). Nhưng ngoài xa nơi phía Ðông lại có vượng khí của đại thủy mênh mông chiếu tới, lấn át được sát khí, nên tuy hay bị những biến động về chính trị, nhưng là một giai đoạn tương đối yên lành, sung túc. Sang Vận 8, Hà Nội sẽ bước vào giai đoạn cực thịnh, sản sinh ra những lãnh tụ tài ba đem lại thanh bình và vinh quang cho đất nước.?Trong giai đoạn này tuy cũng có chiến tranh xảy ra, do khu vực phiá Ðông Bắc có rất nhiều sông ngòi chằng chịt. Nhưng cảnh thái bình, thịnh trị, sẽ nhanh chóng được tái lập vì vượng khí của các dãy núi trong khu vực Ðông Triều-Cẩm Phả sẽ đem đến cho Hà Nội rất nhiều may mắn, thuận lợi. Sang tới Vận 9, thời kỳ hưng vượng vẫn tiếp tục được duy trì, cho tới khi bước sang Vận 1 thì những mầm mống loạn lạc mới bắt đầu tái diễn trở lại.



Nếu nhìn lại lịch sử thì ngay từ thời Bắc thuộc, một số tướng lãnh cai trị Trung Hoa có tầm hiểu biết sâu rộng về Phong thủy như Cao Biền đã bắt đầu để ý tới địa thế tốt đẹp của Hà Nội. Bởi thế nên ngay từ thời đó, họ đã cho xây thành ở khu vực này và đặt tên là thành Ðại La, nhưng ngôi thành này thường bị bỏ trống, ít khi được chú ý tới. Phải đến khi vua Lý Thái Tổ lên ngôi, ngài thấy Hoa Lư có địa thế quá nhỏ hẹp nên mới dời đô về đây và đổi tên là thành Thăng Long. Lúc đó là năm 1010, thuộc Vận 3 Thượng Nguyên, xét về vận khí thì đây chính là lúc suy vong của Hà Nội. Nhưng cũng may cho nhà Lý là Hà Nội khi trước đã bị bỏ trống từ lâu, đến lúc đó mới được chọn làm đế đô nên vận khí chưa thể ảnh hưởng mạnh mẽ ngay đến cục diện của đất nước. Mặc dù vậy, trong suốt thời gian cai trị của Ngài (1010- 1028), giặc giã nổi lên khắp nơi, khiến cho nhà vua và các hoàng tử phải luân phiên nhau đi đánh dẹp mới giữ vững được quốc gia và bảo tồn được ngôi báu cho nhà Lý.



Khi vua Thái Tổ qua đời, Thái tử Phật Mã lên nối ngôi (1028), hiệu là Lý Thái Tông, lúc đó đang ở trong Vận 4 Trung Nguyên. Ngay lúc đó, Ngài đã phải lo đối phó với cuộc tranh giành ngôi báu của các hoàng tử khác, nhờ có danh tướng Lê phụng-Hiểu phò tá nên Ngài mới dẹp yên được cuộc nổi loạn đó.



Năm 1038, cũng trong Vận 4, Nùng tồn Phúc nổi loạn ở Lạng Sơn, tự xưng là Hoàng đế, thanh thế rất lớn, khiến vua Thái Tông phải thân đi chinh phạt mới dẹp yên được.



Năm 1044, bước sang Vận 5, vượng khí đã bắt đầu dến với Hà Nội, vua Thái Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành. Quân ta đại thắng, chiếm được kinh đô Phật Thệ của nước Chiêm.



Năm 1048, cũng trong Vận 5, Nùng trí Cao (con Nùng tồn Phúc) lại nổi loạn ở Lạng Sơn, âm mưu dựa vào nhà Tống bên Tàu để chống lại nhà Lý. Nhưng vì lúc đó nhà Tống đang suy yếu, chưa muốn sinh sự với Ðại Việt, nên âm mưu này bị thất bại. Sau đó, Nùng trí Cao bị nhà Lý đánh phải chạy sang Tàu cướp phá, rồi bị tướng nhà Tống là Ðịch Thanh dẹp tan.



Năm 1068, trong Vận 6 Trung Nguyên, biết được Chiêm Thành bí mật liên kết với nhà Tống, không chịu thần phục nước ta, vua Lý Thánh Tông cùng với Lý thường Kiệt bèn cất quân đi chinh phạt. Quân ta đại phá quân Chiêm, bắt được Chiêm vương là Chế Củ. Sau cuộc chiến này, Chiêm Thành không những bị bắt buộc phải thần phục nước ta, mà còn phải cắt 3 châu (hay 3 tỉnh) dâng nạp để tạ tội.



Vào cuối năm 1075, cũng trong Vận 6, thấy nhà Tống có ý muốn đánh nước ta, Lý thường Kiệt liền dẫn quân sang đánh chiếm Khâm châu, Ung châu và Liêm châu của nhà Tống, phá hủy mọi căn cứ và những kho tàng quân sự rồi rút về.



Ðầu năm sau, vẫn trong Vận 6, vua Tống cử Quách Quỳ làm đại tướng, ồ ạt dẫn quân sang đánh nước ta báo thù, nhưng bị Lý thường Kiệt chận đánh kịch liệt bên bờ sông Như Nguyệt, suốt mấy tháng trời không tiến binh nổi. Thấy lực lượng bị hao mòn nhiều và biết không thể thắng nổi nước ta, Quách Quỳ bèn chấp nhận giảng hòa rồi rút hết quân trở về.



Năm 1103, vào cuối Vận 7, Lý Giác khởi loạn ở vùng Nghệ An, rồi liên kết với cả Chiêm Thành, Lý thường Kiệt phải tự đem quân vào đánh mới dẹp yên được.



Trong suốt Vận 8 (1104 - 1123), nước ta sống trong cảnh thái bình thịnh trị. Bước sang Vận 9, vào những năm 1128, 1132, 1135, Chân Lạp nhiều lần cho quân ra quấy phá Nghệ An, nhưng đều bị nhà Lý dẹp tan nên cuối cùng lại xin thần phục.



Năm 1138, vào cuối Vận 9, vua Lý anh Tông mới có 3 tuổi lên ngôi, nhưng nhờ có ông Tô hiến Thành là một trung thần tài ba phò tá nên trong suốt thời gian cai trị của ngài (1138 - 1175, tức là từ cuối Vận 9 qua tới giữa Vận 2), đất nước vẫn tương đối được ổn định. Ðến khi Tô hiến Thành qua đời (1179), nhà Lý bắt đầu bước vào thời kỳ suy vong. Dưới thời vua Lý cao Tông (1176 - 1210, tức là từ giữa Vận 2 cho đến giai đoạn đầu của Vận 4), giặc giã nổi lên như ong, trong triều đình từ vua tới quan đều bất tài, không đối phó nổi với tình thế. Năm 1208, Quách Bốc nổi loạn, rồi đem quân về đốt phá kinh thành, khiến vua Cao Tông phải dẫn Thái tử Sam bỏ chạy. Sau phải nhờ Trần Lý đem quân về dẹp loạn mới lấy lại được kinh đô, nhưng quyền bính lại lọt hết về tay họ Trần. Trong suốt thời gian còn lại của Vận 4 (1210 - 1223), vương quyền của nhà Lý mỗi lúc một suy yếu, tàn tạ. Ðể rồi vào năm 1225, Trần thủ Ðộ diệt nhà Lý, đặt cháu làTrần Cảnh lên làm vua và lập ra nhà Trần.



Khi nhà Trần được sáng lập thì cũng là lúc mới bước vào Vận 5, vượng khí bắt đầu đến với Thăng Long (Hà Nội), nên đây là lúc mà sức mạnh của đất nước được bộc phát trở lại. Nhưng triều đình nhà Lý đã quá suy nhược, hèn yếu, do đó phải nhường chỗ cho một thế lực chính trị khác, có đầy đủ khả năng và nghị lực, để dẫn dắt dân tộc tiến lên. Rồi ngay từ những ngày đầu, Trần thủ Ðộ đã tiến hành nhiều cuộc canh tân, cải cách, diệt trừ nội loạn (kể cả việc giết hại con cháu họ Lý). Nhờ thế nên chẳng bao lâu, các nền chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên đất nước ta đều được khôi phục và phát triển trở lại. Nhưng trong lúc đó, xứ Mông Cổ cũng đang nổi lên thành một thế lực đế quốc hùng mạnh bậc nhất trong lịch sử thế giới, đánh chiếm được hầu hết Á Châu rồi tràn sang đến tận vùng Ðông Âu. Sau khi đã chiếm được phần lớn đất đai của Trung Hoa, Mông Cổ bắt đầu dòm ngó tới Việt Nam.



Năm 1257,?rong Vận 6 Trung Nguyên, chúa Mông Cổ là Hốt tất Liệt phái danh tướng Ngột-lương-hợp-Thai đem quân đánh chiếm nước Ðại Lý (Thuộc tỉnh Vân Nam bây giờ), rồi sau đó tiến xuống chiếm luôn Việt Nam. Ngột-lương-hợp-Thai tiến binh rất nhanh, chỉ trong 1 tháng đã diệt được nước Ðại Lý, rồi thừa thắng tiến vào nước ta. Trước sức mạnh của quân địch, vua tôi nhà Trần phải bỏ Thăng Long rút về Hưng Yên, áp dụng chiến lược "vườn không nhà trống" để đối phó. Chẳng bao lâu sau, khi thấy quân Mông Cổ suy yếu vì không được tiếp tế lương thực, thuốc men đầy đủ, nhà Trần mở cuộc tổng phản công, đánh bại quân địch ở Ðông bộ Ðầu, khiến cho Ngột-lương-hợp-Thai phải rút quân tháo chạy về Vân Nam.



Sau chiến thắng này và cho đến hết năm 1283, tức là từ giữa Vận 6 cho đến hết Vận 7, nhà Trần phải trải qua cuộc đấu tranh đầy cam go và thử thách về ngoại giao với nhà Nguyên (tức đế quốc Mông Cổ).



Ðầu năm 1285, thuộc Vận 8 Hạ Nguyên, Hốt tất Liệt sai thái tử Thoát Hoan đem 50 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ hai. Ðây chính là lúc vận khí của Hà Nội đang trong giai đoạn cực thịnh, nên mặc dù quân Mông Cổ tinh nhuệ và đông đảo chưa từng có, nhưng chỉ sau 5 tháng giao tranh, bọn chúng đã bắt đầu nao núng. Trước tình hình đó, quân ta phản công, đại thắng quân địch trong các trận Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp, giết Lý Hằng, chém Toa Ðô, còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng chạy về Tàu.



Quá căm tức vì cuộc thất trận này, vào cuối năm 1287, cũng trong Vận 8, Hốt tất Liệt lại sai Thoát Hoan đem 30 vạn quân sang đánh nước ta lần thứ ba. Nhưng lần này thì quân địch còn bị thảm bại nhanh chóng hơn, vì sau khi đoàn thuyền lương của chúng bị ta phá tan ở Vân Ðồn, Thoát Hoan đành phải chia quân thành 2 đường thủy-bộ rút lui. Ðạo thủy quân của địch bị ta chận đánh tan tành trên sông Bạch Ðằng, những danh tướng như Ô-mã-Nhi, Phàn Tiếp đều bị bắt sống. Còn đạo quân dưới sự chỉ huy của Thoát Hoan theo đường bộ rút về cũng bị chận đánh kịch liệt, các đại tướng như A-bát-Xích, Trương Ngọc đều bị tử trận, Thoát Hoan phải vất vả lắm mới vượt qua được ải Nam Quan trốn thoát.



Xét về 2 cuộc đại thắng quân Mông Cổ của nhà Trần sau này đều xảy ra trong Vận 8, giữa lúc vận khí của Hà Nội đang đi đến giai đoạn cực thịnh. Lúc này, nhờ những dãy núi dài hàng ngàn dậm ở phía Ðông Bắc hướng tới, thần lực của Hà Nội thật vô cùng mãnh liệt, nên không một thế lực hùng mạnh nào có thể lay chuyển được. Bởi thế nên chẳng những tinh thần quật cường, bất khuất của cả dân tộc ta lúc đó đang bùng lên đến mức tột độ, mà những anh hùng tài ba lỗi lạc cũng xuất hiện rất nhiều. Từ những vị vua như Trần thái Tông, Trần Nhân Tông, đến những danh tướng như Trần quang Khải, Trần khánh Dư, Trần nhật Duật, Phạm ngũ Lão....và đặc biệt là vị đại anh hùng dân tộc Hưng đạo Vương Trần quốc Tuấn. Chính vì thế nên dù cho đế quốc Mông Cổ có hùng mạnh đến đâu, quân đội của chúng có đông đảo, thiện chiến, tinh nhuệ tới mức nào đi nữa, khi bước đến Việt Nam cũng không thể tránh được sự thảm bại.



Sau 2 cuộc đại thắng này, nhà Trần hưởng cảnh thanh bình, thịnh vượng được hơn 40 năm (1288-1233), tức là từ những năm còn lại của Vận 8 (16 năm) qua hết Vận 9 vào đến giữa Vận 1. Duy chỉ có việc vua Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua nước Chiêm, nhưng sau đó lại bắt về làm nảy sinh ra sự hiềm khích giữa 2 nước. Năm 1307, đầu Vận 9, Chiêm Thành đem quân sang quấy rối nước ta, nhưng bị nhà Trần đánh cho đại bại, Chiêm Vương Chế Chí bị bắt đem về giam ở Hà Nội.



Năm 1334, vào giữa Vận 1, giặc Lào bắt đầu kéo sang phá phách. Mặc dù bị đánh bại, nhưng sau đó chúng vẫn tiếp tục trở lại cướp phá thường xuyên, khiến cho vua tôi nhà Trần phải vất vả lo toan đánh dẹp và phòng thủ biên giới.

Kể từ đời vua Trần dụ Tông (lên ngôi năm 1341 tức cuối Vận 1) thì nhà Trần bắt đầu suy yếu, vì nhà vua chỉ biết vui chơi, giữa lúc nhân dân đói khổ, lầm than. Năm 1353, thuộc Vận 2, thấy nước Chiêm có nội chiến, vua Dụ Tông bèn đem quân sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm đánh bại.



Năm 1367, đầu Vận 3, nhà Trần lại cử đại quân vào đánh Chiêm Thành, nhưng cũng bị đại bại như lần trước, chủ tướng của quân ta bị quân địch bắt sống.



Năm 1377, cũng trong Vận 3, vua Trần duệ Tông và Hồ quý Ly huy động 12 vạn quân thủy-bộ vào đánh Chiêm Thành. Nhưng khi tiến tới Ðồ Bàn thì bị vua Chiêm là Chế bồng Nga đánh tan, vua Trần bị tử trận, còn Hồ quý Ly phải tháo chạy trở về. Thắng trận này, Chế bồng Nga liên tiếp 3 lần đem quân ra đánh chiếm Thăng Long, cướp phá kinh thành rồi trở về.



Năm 1389, đầu Vận 4, trong lúc Chế bồng Nga đang đem quân sang đánh nước ta lần thứ 4 thì có nhà sư tên Phạm sư Ôn lại nổi loạn, khiến triều đình nhà Trần vô cùng bối rối. May nhờ Chế bồng Nga bị trúng đạn tử trận, quân Chiêm mới lui binh, rồi loạn Phạm sư Ôn cũng được dẹp yên. Nhưng đến lúc này, nhà Trần đã quá suy yếu, quyền hành lọt hết vào tay Hồ quý Ly. Họ Hồ mỗi ngày một tạo dựng thêm vây cánh khắp triêù đình, để rồi đến năm 1400 (cuối Vận 4) thì diệt nhà Trần, lên ngôi và lập ra nhà Hồ.



Xét về những cuộc thất bại của nhà Trần dưới tay quân Chiêm đều xảy ra vào khoảng từ giữa Vận 2 đến đầu Vận 4, là những giai đoạn mà vận khí của Hà Nội rất suy yếu. Bởi thế nên mặc dù nước ta rộng lớn hơn, tiềm lực về kinh tế lẫn quân sự đều hùng hậu hơn Chiêm quốc, vậy mà vẫn bị họ đánh cho khốn đốn, khiến vua, tôi nhà Trần nhiều phen phải bỏ cả kinh đô mà chạy. Ðúng ra trong những giai đoạn đó, nhà Trần chỉ nên án binh bất động, không nên tranh hùng với địch quốc, vì một khi vận khí của kinh đô đã quá suy yếu thì không thể chiến thắng được ai. Ngay cả đến việc diệt trừ nội loạn như cuối đời nhà Lý (cũng trong các Vận 3,4) mà còn chưa làm nổi thì làm sao có thể chiến thắng được các quốc gia thù địch ở bên ngoài. Tuy nhiên, trong các Vận 3 và 4, sát khí của biển Ðông quá mạnh, nên dù nhà Trần có hòa hoãn với các nước lân cận thì cũng bị những cuộc nổi loạn trong nước làm cho điêu đứng để rồi đi đến chỗ bị tiêu diệt



Khi Hồ quý Ly lên ngôi, việc đầu tiên của ông là cho dời thủ đô về Tây Ðô ở Thanh Hóa, rồi cho tiến hành nhiều cải cách táo bạo về chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và quân sự. Nhưng vào năm 1407, đầu Vận 5, khi nhà Minh mượn tiếng "phù Trần diệt Hồ" đem quân sang xâm lăng nước ta thì nhà Hồ bị tan rã và sụp đổ nhanh chóng. Một lần nữa, dân tộc ta lại nằm dưới ách cai trị của người Tàu.



Nếu xét về phương diện Phong thủy và vận khí thì sự sụp đổ của nhà Hồ là do 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất là khi Hồ quý Ly cướp ngôi nhà Trần, vận khí của thủ đô Thăng Long đang ở trong giai đoạn tàn tạ, suy yếu đến tột độ (Vận 4). Nên dù ông có cố công canh tân, cải cách thế nào đi nữa, nước ta yếu vẫn hoàn yếu, mà lòng người dân lại càng không phục, bất mãn. Thứ hai là việc ông lập Tây Ðô (thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ) làm thủ đô mới của nước ta. Ðây là một vùng đất chật hẹp, lại bị long mạch của dãy Hoàng liên Sơn tiến tới đâm sát vào. Ðối với Phong thủy, địa thế như vậy không được coi là có Long (núi) chầu phục, mà chính là thế bị Long tiến tới bức bách, áp chế, khiến cho vượng khí bị thất tán, còn sát khí thì tràn ngập cả kinh đô. Bởi thế nên ngay từ khi lên ngôi, Hồ quý Ly đã gặp phải những áp lực nặng nề từ trong và ngoài nước, để rồi đến khi quân Minh sang đánh nước ta thì nhà Hồ liền bị sụp đổ nhanh chóng. Mặt khác, vào lúc đó, vận khí của Bắc Kinh đang ở trong giai đoạn cực kỳ hưng vượng (thành Bắc Kinh chủ phát vào các Vận 5, 6, và 7). Do đó, nếu đem vận khí của Tây Ðô đối chọi với vận khí của Bắc Kinh lúc đó thì làm sao nhà Hồ không lãnh lấy cái hậu quả diệt vong, mất nước được. Nếu như Hồ quý Ly không dời đô, thì tuy ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong những năm đầu, nhưng khi bước vào Vận 5 (1404) vượng khí sẽ trở lại với Thăng Long. Lúc đó, sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc lại trào dâng mạnh mẽ thì thử hỏi nhà Minh làm sao có thể đánh chiếm và đô hộ nước ta ngót 20 năm được?



Nhưng cũng may dân tộc ta, khi quân Minh thiết lập nền đô hộ, chúng lại lấy Thăng Long (lúc đó đã đổi tên là Ðông Ðô) làm trung tâm điều hành việc cai trị, trực tiếp nhận lệnh điều khiển từ Bắc Kinh. Nhưng chúng không biết rằng trong các Vận 5, 6, 8, nếu là một trung tâm quyền lực chính trị thì Thăng Long sẽ không bao giờ là chư hầu của bất cứ một thành phố nào trên thế giới. Do đó, những phong trào kháng chiến bùng nổ khắp nơi, cho đến khi Lê Lợi tụ tập được anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn thì nền độ hộ của quân Minh đã bước vào thời kỳ tàn cuộc. Vào năm 1426, đầu Vận 6, nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang nước ta để đối phó với phong trào kháng chiến của Lê Lợi, nhưng đạo quân này bị ta đánh tan ở Tuy Ðộng. Năm sau, cũng trong Vận 6, nhà Minh lại phái Liễu Thăng và Mộc Thạnh đem 15 vạn quân sang nước ta hòng cứu vãn tình thế. Nhưng khi 10 vạn quân của Liễu Thăng bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn trong các trận đánh Chi Lăng, Tốt Ðộng-Chúc Ðộng, nhà Minh không còn cách gì khác hơn là rút hết quân về nước và thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta.



Ðánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi liền lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Thái Tổ và lập ra nhà Lê, nhưng Ngài chỉ ở ngôi được 6 năm (1428 - 1433) thì qua đời. Con Ngài lên thay lấy hiệu là Thái Tông (1434 - 1442). Dưới thời vua Thái Tổ và Thái Tông, có nhiều vụ giết hại những công thần danh tiếng như Trần nguyên Hãn, Phạm văn Xảo, Lê Sát, Nguyễn Trãi... xảy ra. Ðó chẳng qua là vì trong suốt Vận 6, nước ta thường bị đe dọa bởi những cuộc chiến tranh lớn hay những vụ khủng hoảng chính trị trầm trọng. Nhưng sau những trận đại thắng quân Minh trước đây, không còn một nước nào trong khu vực dám xâm phạm bờ cõi nước ta nữa. Do đó mới xảy ra những vụ giết hại công thần rất đẫm máu vừa kể trên.



Sau thời vua Lê thái Tông, nước ta tương đối được ổn định trong suốt 16 năm. Ðến năm 1459, trong Vận 7 Hạ Nguyên, hoàng thân Nghi Dân đem quân về giết vua đoạt lấy ngai vàng, nhưng chỉ không đầy 1 năm sau thì lại bị các quan đại thần phế đi, rồi lập em là Gia Vương Tư Thành lên ngôi, lấy hiệu là Lê thánh Tông.



Dưới thời vua Lê thánh Tông (1460 - 1497, tức là từ cuối Vận 7 qua hết Vận 8 cho tới gần cuối Vận 9), nước ta trở thành một cường quốc hùng mạnh bậc nhất trong vùng Ðông Nam Á. Ở trong nước, nhà vua cho tiến hành nhiều cải cách: từ chính trị, kinh tế đến luật lệ, thuế khóa.... khiến đời sống người dân được yên ổn, sung túc. Ở ngoại biên, vua Lê thánh Tông huy động những cuộc viễn chinh có quy mô rất lớn: năm 1470, Ngài đem 26 vạn quân đi đánh và chiếm đất Chiêm Thành. Năm 1479, Ngài đem 18 vạn quân sang dẹp yên xứ Lão Qua; sang năm sau, lại đem 30 vạn quân xuống diệt xứ Bồn Mang. Thấy nước ta khống chế các nước lân bang nơi phía Nam, Minh triều tỏ ý bực tức nhưng chẳng làm gì được. Bởi vì trong Vận 8, nguyên khí của thành Bắc Kinh đã đến thời kỳ suy yếu, không thể nào đối chọi nổi với cái hùng khí của Thăng Long thủa ấy.



Sau khi vua Lê thánh Tông băng hà, dân tộc ta vẫn tiếp tục sống trong cảnh thái bình thịnh trị dưới thời vua Lê hiến Tông (1497 - 1504, tức là từ những năm cuối của Vận 9 sang đến đầu Vận 1). Nhưng kể từ đó trở đi, nhà Lê bắt đầu suy yếu với những ông vua xa xỉ, độc ác như Lê uy Mục (1505 - 1509), Lê tương Dực (1510 - 1516) , khiến cho trăm họ đói khổ, giặc giã nổi lên như ong. Lợi dụng tình thế rối ren đó, một võ tướng có tài là Mạc đăng Dung bắt đầu gây dựng thế lực: diệt trừ những cuộc nổi loạn và những phe cánh đối lập. Khi đã thâu tóm trọn quyền bính trong tay, Mạc đăng Dung liền cho người giết vua Lê cung Hoàng rồi tự xưng làm hoàng đế và lập ra nhà Mạc vào năm 1527, lúc đó đang là đầu Vận 2 Thượng Nguyên. Nhưng chẳng được bao lâu sau thì con cháu nhà Lê, được sự phò tá của 2 họ Trịnh -Nguyễn, lại bắt đầu nổi lên ở Nghệ-an để tạo thành thế Nam - Bắc triều. Trong suốt thời gian từ năm 1540 cho đến năm 1583, tức là từ cuối Vận 2 cho đến hết Vận 4, cả 2 bên đều mở rất nhiều cuộc tấn công quyết liệt, nhưng không bên nào dành được thắng lợi trọn vẹn. Phải đến năm 1591 (trong khoảng đầu Vận 5), Trịnh Tùng kéo đại quân ra Bắc, chiếm được thành Thăng Long, nhưng lại cho san thành bình địa rồi rút về. Sang năm sau, Trịnh Tùng lại đem quân ra Bắc lần nữa mới thực sự diệt được nhà Mạc và bình định được đất Bắc.



Nếu xét tới sự thất bại của nhà Mạc thì lý do không ngoài việc Mạc đăng Dung đã vội vã cướp ngôi nhà Lê quá sớm. Thật vậy, lúc đó đang là đầu Vận 2, nguyên khí nước ta đang dần dần bị suy thoái, nên dù ông có cố công gắng sức trong việc cai trị, tình thế mỗi lúc một trở nên đen tối. Trong các Vận 3, 4, nhà Mạc mỗi lúc một tàn tạ, suy nhược, nên khi bước vào Vận 5 thì bị tiêu diệt. Bởi vì lúc đó vượng khí đã bắt đầu trở về với Thăng Long, nên những chế độ mục nát, suy tàn sẽ bị quét sạch để nhường bước cho những thế lực chính trị mớí, có đầy đủ khả năng và nghị lực để đối phó với tình thế. Tuy nhiên, khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, lại cho quân phá tan thành bình địa, khiến cho vượng khí bị thất tán, làm suy giảm rất nhiều thần lực của kinh đô. Bởi thế nên sau này, họ Trịnh chẳng những phải hao tổn rất nhiều thời gian và công sức mới trừ hết được những dư đảng của nhà Mạc, mà còn không khuất phục được họ Nguyễn ở phương Nam. Ngay cả trong các Vận 8 (1644 - 1663) và Vận 9 (1664 - 1683) là những giai đoạn tốt đẹp nhất của Thăng Long, họ Trịnh vẫn không thống nhất được đất nước, khiến cho tình trạng Nam - Bắc phân tranh kéo dài ngót 100 năm.



Giữa lúc 2 phe Trịnh - Mạc đang giao tranh quyết liệt ở ngoài Bắc, họ Nguyễn liền lợi dụng cơ hội đem quân vào Nam gây dựng thế lực ở Thuận Hóa (tức khu vực từ Quảng Bình vào tới Quảng Nam bây giờ). Ðến khi nhà Mạc bị diệt thì họ Nguyễn đã bắt đầu đủ mạnh để đối phó với họ Trịnh. Lúc này, vua Lê chỉ còn là bù nhìn, mọi quyền hành đều lọt vào trong tay chúa Trịnh (ở ngoài Bắc) và chúa Nguyễn (ở trong Nam). Rồi trong suốt thời gian từ năm 1627 đến năm 1672 (tức là từ đầu Vận 7 cho đến giữa Vận 9), hai bên 7 lần đại chiến tại khu vực Hà tĩnh -Quảng bình. Nhưng vì không bên nào dành được thắng lợi quyết định, nên đành lấy sông Gianh làm ranh giới chia đôi đất nước.



Tuy nhiên, mặc dù không thống nhất được đất nước, nhưng trong thời gian đầu, các chúa Trịnh đều là những nhà lãnh đạo có tài, biết chăm lo việc nước nên đời sống của người dân cũng được yên lành, sung túc. Chỉ đến đời chúa Trịnh Giang (1729 - 1740 tức là bắt đầu từ Vận 3 trở đi) thì nền cai trị của nhà Trịnh đã bắt đầu lung lay. Dưới chế độ thuế khóa, phu dịch quá nặng nề của triều đình, người dân vô cùng đói khổ, lầm than, dẫn đến nhiều cuộc nổi loạn liên tiếp trong suốt 30 năm (1739 - 1769), khiến cho triều đình phải đánh dẹp vô cùng vất vả. Ðến đời chúa Trịnh Sâm (1767 - 1782 tức là trong Vận 5), do cũng có năng lực, lại được những đại thần có tài như Bùi thế Ðạt, Hoàng ngũ Phúc, Lê quý Ðôn .... phò tá nên chẳng những dẹp yên được các cuộc nổi loạn, mà còn bắt đầu bành trướng thế lực của họ Trịnh xuống phương Nam. Nhưng khi ông qua đời, con là Trịnh Khải lên thay lại tỏ ra bất tài, hèn yếu, không làm chủ được tình thế, để cho kiêu binh lộng hành, khiến cho miền Bắc trở nên rối loạn. Giữa lúc đó, nước Trung Hoa ngày càng hùng mạnh dưới sự lãnh đạo của vua Càn Long, lại đang chủ trương xâm chiến các nước láng giềng để mở rộng cương vực. Trước mối đe dọa nghiêm trọng đó, nhà Trịnh bắt buộc phải cáo chung để mở lối cho sự xuất hiện của một vị đại anh hùng dân tộc mới: hoàng đế Quang- Trung Nguyễn Huệ.



Còn về phần các chúa Nguyễn ở trong Nam thì mặc dù hùng cứ một phương, nhưng trên danh nghĩa vẫn là tôi thần của vua Lê, không lập nước hoặc kinh đô riêng nên vẫn phụ thuộc vào vận khí của Thăng Long. Do đó, trong những giai đoạn đầu, các chúa Nguyễn cũng rất tài giỏi, biết cách an dân, trị nước, đồng thời tiếp tục mở rộng lãnh thổ nước ta cho đến tận Hà Tiên. Sau này, dưới thời các chúa Nguyễn phúc Trú (1725 - 1738) và Nguyễn phúc Khoát (1738 - 1765) tức là trong các Vận 3 và 4, triều đình trong Nam đã bắt đầu suy yếu, những cuộc Nam tiến hầu như đã bị đình trệ hẳn. Kể từ năm 1765 tức là đầu Vận 5, triều đình của chúa Nguyễn lại càng thối tha, mục nát vì sự lộng hành của quyền thần Trương phúc Loan, khiến cho muôn dân lầm than, đói khổ. Trước tình hình đó, 3 anh, em nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ liền đứng lên phát động cuộc khởi nghĩa vào năm 1772, lúc đó đang là giữa Vận 5 Trung Nguyên. (Sưu tầm)
 

Ghi vào ô bên dưới nếu bạn cần Tư Vấn Cách dùng Đúng và Đủ

Cập nhật lần cuối: 9/23/2012 10:05:16 AM

Về trang trước Bản in Gửi email

Tin xem nhiều nhất

Sản phẩm
Tin tức
Tìm kiếm

Liên hệ