Người ta cho rằng Phong Thủy xuất phát từ Tàu khoảng cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4. Các trước tác đầu tiên của thể loại Phong Thủy Tàu hình như là quyển Táng Thư.

A . Nguồn gốc của Phong Thủy.
Người ta cho rằng Phong Thủy xuất phát từ Tàu khoảng cuối thế kỷ thứ 3 đầu thế kỷ thứ 4. Các trước tác đầu tiên của thể loại Phong Thủy Tàu hình như là quyển Táng Thư.Tuy nhiên nếu nhìn vào trường hợp cụ thể của việc xây dựng thành Đại La thì có thể thấy Phong Thủy đã có ở Giao Chỉ trước. Và quan trọng nhất là:
+ Phong Thủy Giao Chỉ hoàn toàn không có yếu tố mê tín dị đoan khỉ gì cả. Chẳng qua có yếu đố dị đoan là do Cao Biền (do ảnh hưởng của phong thủy tàu) mang đến.
 
+ Phong Thủy Giao Chỉ chính là khoa học: Là thủy lợi, là quy họach đô thị, là hiểu biết về hạ tầng địa chất, là hiểu biết về mưa bão lụt lội.
Vậy Phong Thủy Giao Chỉ đến từ đâu. Tất nhiên là đến từ Ai Cập Cổ Đại.
 
+ Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có từ rất rất rất lâu ở châu thổ sông Nile, bắc phi. Thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở tận … thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên (ôi trời, xa thời hiện đại ghê).
 
+ Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã có cực kỳ nhiều thành tựu: chữ viết, xây dựng, hiểu biết về luyện kim, làm thủy tinh. Họ cũng có những kiến thức về điện, khí động học và hạ tầng địa chất, thiên văn học, y học. Tất cả nền văn minh rực rỡ này đều có xuất phát điểm từ việc họ rất giỏi thủy lợi và hiểu biết về thiên tai địch họa như lụt lội. Nhờ thủy lợi giỏi mà nông nghiệp của Ai Cập cổ đại phát triển. Họ bỏ qua các ngành lúc đó bị tụt hậu xa với nông nghiệp như săn bắn, đánh cá, … Nhờ nông nghiệp phát triển mà họ có sức mạnh về nhân sự (cần ít lao động hơn cho việc kiếm ăn). Nhờ sức mạnh nhân sự mà họ phát triển được các công trình xây dựng và quy họach đô thị.
 
Tất nhiên nền văn minh nào cũng suy tàn. Vị Pharaoh cuối cùng của Ai Cập bị vua Cambyses II người Ba Tư đánh bại năm 525BC, mở ra thời kỳ nô lệ đầu tiên dưới ách đế chế Ba Tư (Persian Empire). Thời kỳ này kéo dài không lâu lắm. Lần cuối cùng người Ba Tư chinh phục đất sông Nile là lần vua Artaxeres III (358-338 BC) xâm chiếm Ai Cập.
Sau thời kỳ bị Ba Tư xâm lược là thời kỳ Hy-La xâm lược Ai Cập Cổ Đại.
Đặc biệt là trong đó có thời kỳ vua Alexander Đại Đế (356-323BC) 

 
 


Vua Alexander Đại Đế có một cuộc viễn chinh vĩ đại nhất trong lịch sử loài người cả về quy mô, sức người sức ngựa sức voi, và độ chinh phục. Ông tấn công Ấn Độ.
 
Việc xâm chiếm Ấn Độ của quân đội Alexander Đại Đế không dài. Nhưng đủ để mang văn hóa La Mã – Ai Cập đến với Ấn Độ. Trong đó có các nghệ thuật thủy lợi, địa chất và quy họach đô thị. Có lẽ Alexander Đại Đế đã mang theo rất nhiều tù binh Ai Cập. Hoặc ông mang hẳn các nhà khoa học Ai Cập đi cùng quân đội viễn chinh của mình. Các kiến thức y tế, luyện kim, địa chất, khí tượng thủy văn của Ai Cập nhờ đó mà đến được với Ấn Độ.
Sau khi quân đội của Alexander Đại Đế rút lui là mở ra đế chế Maurya của người Ấn (322BC-298BC).
Đến thời vua Ashoka Đại Đế (273-232-BC), Ấn Độ đã trở thành nước mạnh với quốc giáo là Đạo Phật Nguyên Thủy. Vua Ashoka đã có chiến lược quảng bá Phật Giáo đi các vùng Đông Nam Á, Tây Á và Châu Âu phía Địa Trung Hải.
 
Đi cùng các nhà truyền giáo cũng vẫn là các tri thức người Ấn vừa mới được update thêm kiến thức về thiên văn, thủy lợi, địa chất và y học.
 
Sau đó là câu chuyện về việc Phật Giáo đi vào Văn Lang như đã nói ở phần II.
 
Điều này lý giải tại sao các vua Hùng giỏi làm thủy lợi, biết đúc trống đồng, biết làm thuyền to đi trên sông. Lý giải tại sao Thục Phán An Dương Vương biết làm nỏ thần có mũi tên bằng sắt. Lý giải tại sao các pháp sư Giao Chỉ có kiến thức về thủy lợi, hạ tầng địa chất, thiên văn và quy hoạch. Tại sao các nhà sư ngày xưa lại biết chữa bệnh (cả Từ Đạo Hạnh và Minh Không đều chữa bệnh nan y cho Vua).
 
Sau đó nghệ thuật thủy lợi và quy họach đi qua Trung Quốc và trở thành Phong Thủy. Rồi bị dị đoan hóa thành Phong Thủy Tàu. Rồi lại quay lại làm u mê chính chúng ta ngày xưa (Cao Biền) và ngày nay (toàn đọc xem lịch với tử vi bói toán kiểu Tàu, hahaha).

B. Nguồn gốc của Kinh Dịch.
 
Nguồn gốc của Kinh Dịch (gốc) cho đến nay vẫn hết sức mù con nhà mờ. Nếu thuyết cho rằng Kinh Dịch có từ thời Phục Hy (2852-2738BC) mà là đúng thì bó tay, không giải thích được. Nhưng may mắn là thuyết này chắc không đúng lắm vì chính người Tàu nó cũng không tin là cái thuyết này có nguồn gốc xạo như thế. Và người Tàu cũng bó tay khi không biết giải thích tên của bát quái là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài là cái qué gì. Nhưng nếu các thuyết cho rằng Kinh Dịch (gốc) ra đời muộn hơn, tầm những năm thuộc thế kỷ thứ II trước công nguyên, mà đúng, thì có lẽ Kinh Dịch đến từ Văn Lang thật.Kinh Dịch Văn Lang một lần nữa lại là sản phẩm do các vua Hùng nhà mình localized từ kiến thức của người Ai Cập Cổ Đại.Cụ thể như sau:
Người Ai Cập Cổ Đại có kiến thức vượt trội về Trắc Địa và Thiên Văn. Các kim tự tháp đã được xây dựng với các tính toán cực kỳ chính xác vềác góc, tọa độ, kích thước. Nó cũng trùng khớp với quỹ đạo một số quỹ đạo của sao ở trên giời. Nó cũng là các sản phẩm hình học (đa giác) do đầu tiên con người tạo nên mà có độ chính xác cao.
Người Ai Cập Cổ Đại đã phát triển một dạng nghệ thuật biểu hiện thay cho chữ viết (Egyption hieroglyphs).
Người Ai Cập Cổ Đại đã nắm vững các quy tắc thập phân và các tỷ lệ vàng trong xây dựng và quy họach (golden ratio).
Và họ đã chuyển giao kiến thức và công nghệ cho các vua Hùng.
Điều này thể hiện ở:
+ Tín ngưỡng đa thần
+ Các vua Hùng sử dụng hệ lịch thập phân, mỗi tuần có 10 ngày. Một năm có 360 ngày.
+ Các vua Hùng sử dụng đồ họa như là writing system. Cụ thể là ở trên mặt trống đồng, các hoa văn (chính là ideogram, pictogram) đều đưa ra một message gì đấy. Và các hoa văn này rất giống với các họa tiết của người Ấi Cập (Egyption hieroglyphs) trên đồ đất nung của họ.
+ Các hình ngôi sao trên trống đồng và hướng của chúng được đúc cực kỳ chính xác. Đó là do được học các phép toán về đo đạc, góc, phương vị, hình học và đặc biệt là Thiên Văn của người Ai Cập.
+ Các danh từ tiếng Ai Cập Cổ Đại được các vua Hùng sử dụng (giống ngày nay ta nói chuyện bằng tiếng Việt nhưng thuật ngữ vẫn nói tiếng Anh như chip, stock, …). Đặc biệt là các từ thuộc lĩnh vực cao siêu như Thiên Văn và Thủy Văn. Các từ như Càn, Khảm , Tốn, Khôn đều na ná như âm của người Mường học tiếng Ai Cập. Thậm chí từ Hùng như chúng ta gọi vua Hùng chính là từ chữ Khun hoặc Cun trong tiếng Việt cổ (có nghĩa là người đứng đầu hay thủ lĩnh). Mà chữ Cun này rất có khả năng chính là từ Vua trong tiếng Ai Cập cổ.
Như vậy, nhờ chuyển giao công nghệ mà các vua Hùng của chúng ta có một bước đại nhảy vọt về các kiến thức Thiên Văn, Thủy Văn, Địa Chất, Xây dựng.
Bọn Tàu vốn xưa nay giỏi copy and paste (càng ngày càng thấy giỏi) nên vác trống đồng của Vua Hùng về ngâm cứu + gửi gián điệp công nghệ qua Văn Lang để thuổng. Sau khi copy và paste, người Trung Quốc đã có:
+ Kinh Dịch: copy từ Thiên Văn
+ Phong Thủy: copy từ Quy họach và Địa Chất và Thủy văn
+ Thước Lỗ ban: copy từ Các golden ratio của người Ai Cập Cổ Đại trong xây dựng.
+ Chữ tượng hình: phát triển từ các hoa văn trên trống đồng
+ Riêng phần thiên văn khó quá nên lúc chuyển ngữ phải giữ nguyên tên gốc là tiếng bồi Ai Cập do các vua Hùng nói nên thành Càn, Khảm, Tốn, Khôn, gì gì đấy. Đến bây giờ người Tàu cũng vẫn cãi nhau về nghĩa gốc của các danh từ này. Bọn này dốt, chính ra qua Ai Cập học hết bằng A tiếng Ai Cập Cổ Đại là về dịch được luôn.
Tóm lại, ngay cả cái được coi là gốc của văn minh Trung Hoa là Kinh Dịch thì cũng chỉ là sản phẩm copy and paste từ nền văn minh Văn Lang vốn được localized từ văn minh Ai Cập Cổ Đại. Sau đó người Trung Hoa copy and paste tiếp chữ viết, Phong Thủy, … Và gần đây họ copy and paste tuốt sờ luốt, từ phim Mỹ, phần mềm Mỹ, xe máy Nhật, nồi cơm điện Nhật, đến các công nghệ cao để làm máy bay hay tàu vũ trụ.
C. Dấu tích của sự lan truyền văn minh từ Ai Cập Cổ Đại qua Văn Lang
Dấu tích của sự lan truyền của nền văn minh Ai Cập qua khu vực Văn Lang còn có thể tìm thấy ở các vùng xa phía dưới miền Nam của Việt Nam hiện nay. Cụ thể là phía các quần đảo của Indonesia. Ở nơi đó, các dân tộc thiểu số của họ không biết tại sao đã biết thổi thủy tinh từ cái thủa xa xưa nào đấy. Không lọai trừ các làng nghề cổ của Việt nam có các nghề đặc biệt như làm giấy Gió, làm gốm cũng là được chuyển giao công nghệ từ Ai Cập Cổ Đại.
Gần đây người ta còn phát hiện ra người Ai Cập còn biết đi biển (biết đóng tàu đi biển và có kiến thức về hoa tiêu biển). Cho nên có thể có những nhóm người Ai Cập Cổ Đại vì chiến tranh với Ba Tư mà chạy lọan về phía Nam Á hiện nay và lưu lạc tới Âu Lạc từ rất lâu trước các đợt tiến quân vào Ấn Độ của Alexander Đại Đế.
Về ngôn ngữ, có lẽ người cổ đại có từ vựng rất ít, cho nên các bộ tộc ở xa nhau, khi gặp gỡ chỉ cần một khoảng thời gian ngắn là học được ngôn ngữ của nhau để giao tiếp. Mà chủ yếu là các vua Hùng nhà mình học tiếng Ai Cập Cổ Đại để đọc tài liệu kỹ thuật và dự các lớp training do người Ai Cập tổ chức.
Điều kỳ lạ và thú vị nhất của sự chuyển giao công nghệ cuối cùng được thể hiện ở hai nền văn hóa được coi là lâu đời nhất trên địa bàn Việt Nam
1. Văn Hóa Đông Sơn (từ Thanh Hóa đến Lào Cai)
+ Cỡ khoảng 3000 năm trước công nguyên, đồ cổ có niên đại xưa nhất được tìm thấy là đồ thuộc văn hóa Phùng Nguyên.
+ Có nông nghiệp phát triển (đã tìm thấy lưỡi cày bằng đồng của thời này)
+ Đúc đồng phát triển (trống đồng). Có hoa văn tương tự hoa văn Ai Cập.

+ Vũ khi phát triển: nỏ thần, tên đồng
+ Giao thương phát triển: trống đồng Đông Sơn được tìm thấy cả ở Indonesia, Malaysia, Nhật, Myanma, Thailand….
+ Đã hình thành nhà nước (quá sớm so với văn hóa các nước xung quanh)
2. Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi, Tây Nguyên và Quảng Bình).
+ Muộn hơn văn hóa Đông Sơn một chút
+ Đã có nghề đi biển, đánh cá
+ Có nghề gốm cực phát triển cả về công nghệ sản xuất và thẩm mỹ. Giống đồ gốm Ai Cập Cổ Đại.
+ Có nghề làm thủy tinh phát triển (xin thưa cái mà bọn tàu gọi là ngọc lưu ly, chén bát làm bằng ngọc lưu ly, chính là sản phẩm thủy tinh Sa Huỳnh sau này chúng cướp bóc từ Giao Chỉ mà mang về tiến vua). Nghề thủy tinh chắc ko thể tự nghĩ ra mà do chuyển giao công nghệ từ Ai Cập.
+ Có nghề làm đồ trang sức cực kỳ phát triển cả về nguyên liệu (được cho là nhập khẩu từ tít Ấn Độ và Myanma) và cực kỳ xuất sắc về design. Cho đến bây giờ vẫn thấy đẹp.
3. Và cuối cùng là vũ trụ quan của người Mường
Nói chung sách sử của ta từ sau thời Mã Viện, đặc biệt là từ sau thời Lê, là cóc tin được. Từ thời Mã Viện, thanh niên này rất tàn ác, đã xóa bỏ chế độ xã hội bộ lạc rất dân chủ để xây dựng chế độ cai trị hà khắc tập quyền. Kể từ đó, tất cả những gì là sự thật đều bắt đầu phải đi qua dòng truyền khẩu dân gian, thay vì đi vào chính sử. Đặc biệt là từ thời Lê, khi mà Nho Giáo lên ngôi, thì sử sách chỉ còn là công cụ ghi chép của tụi cầm quyền.
Vậy nên muốn hiểu sự thực về Âu Lạc và Văn Lang thì tốt nhất là đừng đọc sách sử, hoặc đọc nó mà phải hiểu theo cách phi phong kiến hóa, thay vào đó hãy lắng nghe văn hóa dân gian.
Văn hóa dân gian của người Việt cổ, nói vậy chứ quá mai một rồi, nước bọt đâu mà thì thào mấy ngàn đời được. Câu chuyện còn tồn tại xa xưa nhất về vị vua đầu tiên của nhà nước dân chủ đầu tiên là vua Thục Phán cũng rất mờ mịt. Tuy nhiên trong cái mờ mịt này lại có 2 điểm sáng. Một là Phán có phép thuật đi gặp núi là núu rẽ ra, đi xuống nước là nước rẽ ra (do đó mà gặp thần Kim Quy). Cái quả rẽ nước này rất giống Moses, hoàng tử Ai Cập, dẫn dân nô lệ Hebrew vượt qua biển Đỏ bằng cách rẽ béng nước ra mà đi dưới đáy biển. Hai là Phán không có quá khứ rõ ràng, được cho là cháu ngọai vua Hùng nhưng ở Ai Lao, đại khái là có quá khứ mờ mịt y như Moses. (Trong các chuyện cổ tích sau này thì có viên ngọc kỵ thủy, đi được vào nước, nhưng về concept là khác hẳn việc nước tự rẽ ra cho Thục Phán đi vào)
Câu chuyện Cổ Loa cũng cho thấy là khi Mã Viện tới Âu Lạc thì dân Việt đã biết đắp đê trị thủy rồi (một công nghệ quá mới với người Hoa lúc đấy). Thành Cổ Loa được xây dựng ba vòng ốc cũng là từ công nghệ đắp đê được chuyển qua đắp thành.
Nói chung các vết tích về Âu Lạc và Văn Lang chỉ dừng lại ở đấy, không thể đi xa thêm. Đó là do Mã Viện và Nho Giáo sau này.
Nhưng may mắn thay người Việt cổ đã sống đồng cư và cộng cư với một dân tộc khác, một dân tộc luôn coi họ với người Kinh “tuy hai mà là một”. Đó là người Mường. Người Mường thì may quá, không bị phong kiến hóa. Thế cho nên nhìn vào văn hóa tín ngưỡng của người Mường có thể tìm thấy cái gì đó của người Việt cổ ngày xưa. (Lưu ý là người Mường oánh cồng chiêng và trống đồng hơi bị ác)
+ Người Mường có vũ trụ quan riêng của mình (choáng chưa, hơi bị văn minh nhé). Họ có ‘trường ca’ Đẻ Đất Đẻ Nước và một loạt truyện thơ khác để mô tả vũ trụ từ thủa hồng hoang (big bang) đến việc sinh ra trời đất, con người. Riêng đọan này họ hơn đứt người Việt và người Hoa. Mà có lẽ là họ cũng copy cái vũ trụ luận này từ đâu đó và giữ gìn được còn người Việt bị bọn Tàu nó nô dịch mà bắt phải quên đi, đến vua của mình là An Dương Vương xuất xứ ở đâu mà chả còn nhớ được nữa là. May mà còn nhớ được chi tiết rẽ nước mà đi.
+ Vua Dịt Dàng (hay Gịt Giàng, hay Yịt Yàng) có nghĩa là God. Cũng giống người Bana hay Ê Đê gọi là Giàng (hay Yàng). Xuất xứ của cái tên Dịt Dàng cho đến nay hơi bị mù tịt. Tuy nhiên rất giống từ Ai Cập Cổ Đại gọi vị thần đứng đầu trong các vị thần (Atum-Ra) của họ (đọc là Yamanu). Biết đâu qua tiếng Việt cổ (tiếng Mường) thành Yàng. (Atum là thủ lĩnh các vị thần, Ra là thần mặt trời).
+ Người Mường không gọi mình là Mường. Mường thực ra là vùng đất. Còn họ tự gọi họ là Con Mọl, tức là Con Người.
+ Quan niệm về cái chết và sự sống cũng như con người và linh hồn của người Mường cũng chia làm ba phần y như người Ai Cập: Mường Trời (các vị thần), Mường Người (thế giới của con người) và Mường Ma (thế giới của linh hồn). Điều đặc biệt nhất là người Mường có liên kết ánh xạ Mường Ma và Mường Người y như là trong quan niệm về thế giới người sống và thế giới người chết của người Ai Cập. Cả hai đều có quan niệm và coi trọng một cuộc sống afterlife y hệt như nhau (thế mới choáng chứ)
+ Khi có người chết, người Mường làm đám rất dình dang, với các bố Mo (hay ông Mo) làm đủ các thủ tục phức tạp để tiễn linh hồn về mường Ma. Y như các pháp sư Ai Cập làm thủ tục tiễn người chết đi cho trôi chảy vậy.

+ Xã hội khá dân chủ so với bọn phong kiến tập quyền. Có giới quý tộc (nhà Lang) và người lao động cống nạp. Trong giới quý tộc thì có quý tộc giàu và quý tộc nghèo. Cơ sở giàu nghèo được phân định trên số lượng ruộng công được sở hữu (lưu ý là trên số lượng ruộng lúa chứ không phải trên số lượng nương rẫy). Quan Lang, những người đứng đầu Mường Người, sống sướng chả kém gì Pharaoh, đặc biệt là lúc chết làm đám ma hoành tráng như Pharaoh, mỗi tội ở quy mô bé tí, hehehe, và không có kim tự tháp). Còn người dân sống trên đất của nhà Lang thì phải  

==================================

Lưu ý: Bạn nên kết hợp đặt 1 Bộ Khởi Gốc để Chiêu Tài Lộc, Nạp Phước cho gia đình và doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất (bạn xem chi tiết tại đây:  http://www.PhongThuybds.Top/Bộ-Khởi-Gốc-Là-Gì   
-------->> 
 
Phong thủy gia Group
 
 

 

Ghi vào ô bên dưới nếu bạn cần Tư Vấn Cách dùng Đúng và Đủ

Cập nhật lần cuối: 6/8/2022 4:37:11 PM

Về trang trước Bản in Gửi email

Tin xem nhiều nhất

Sản phẩm
Tin tức
Tìm kiếm

Liên hệ